Mới đây, Bộ xây dựng đã tổ chức lấy ý kiến từ các cá nhân và chuyên gia về dự thảo Nghị định Luật Kinh doanh Bất động sản (BĐS). Đáng chú ý là dự thảo này có chưa các quy định nghiệm ngặt hơn về điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS khi thành lập.
Theo đó, khi thành lập, doanh nghiệp BĐS phải công khai những thông tin bắt buộc gồm: tên, địa chỉ trụ sở chính, người đại diện theo pháp luật, số điện thoại liên lạc và các thông tin liên quan đến BĐS đưa vào kinh doanh trên cổng thông tin điện tử của DN, cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và nơi có BĐS đưa vào kinh doanh.
Trong trường hợp là chủ đầu tư dự án BĐS thì ngoài các quy định trên, còn phải có vốn chủ sở hữu ít nhất bằng 20% tổng vốn đầu tư với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha. Với dự án có quy mô từ 20 ha trở lên, mức này là 15%.
Bên cạnh việc siết chặt điều kiện kinh doanh, dự thảo còn đưa ra đề xuất tăng phạt tiền lên đến 800 triệu đồng đối với một số hành vi kinh doanh BĐS như chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án mà không bảo đảm các yêu cầu hoặc các điều kiện theo quy định, bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng khi chưa hoàn thành đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng và các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt, chưa bảo đảm kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực; huy động hoặc chiếm dụng vốn trái phép; sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân hoặc tiền ứng trước của bên mua, bên thuê, bên thuê mua BĐS hình thành trong tương lai không đúng mục đích cam kết…
Ngoài ra, dự thảo về nghị định cũng đề cập đến các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh BĐS với quy mô nhỏ, không thường xuyên. Đối với nhóm này không bắt buộc phải có đầy đủ các điều kiện nêu trên nhưng cần phải tuân thủ chấp hành nộp thuế theo quy định.
Trong đó, kinh doanh BĐS quy mô nhỏ được xác định là những trường hợp bán, cho thuê, thuê mua nhà, công trình xây dựng, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất dưới mức diện tích đất, sàn xây dựng nhà ở, công trình do UBND cấp tỉnh quy định.
Còn với Kinh doanh BĐS không thường xuyên gồm các trường hợp như bán, chuyển nhượng nhà, công trình xây dựng do phá sản, giải thể; bán, chuyển nhượng, cho thuê mua BĐS thuộc sở hữu nhà nước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; các tổ chức tín dụng bán, chuyển nhượng nhà, công trình, dự án đang được bảo lãnh, thế chấp để thu hồi nợ…